移至主內容

Tiểu sử cố Đại lão Hoà Thượng

TIỂU SỬ CỐ ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG khai sáng Phật giáo tại Canada

 

Ngọn đuốc hoằng Pháp bất diệt

 

 

DUYÊN KHỞI

 

Hòa Thượng tục danh Lê Quý Tân đã đến cảnh giới Ta Bà vào ngày 1 tháng 11 năm 1933 tại Ninh Hòa, Khánh Hòa, miền Nam Trung phần Việt Nam. Ngài là con thứ hai trong gia đình bốn anh em, với thân phụ là một nhà giáo Hán học, và thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị - một Phật tử thuần thành, sống đời giản dị, mẫu mực, luôn hướng về Tam Bảo.

 

Năm 1940, khi Ngài vừa tròn 7 tuổi, sau khi thân phụ qua đời, Ngài đã theo tu học với Cố HT Bảo Thành tại Chùa Thiên Bảo.

 

Năm 1949, Cố Hòa Thượng Bảo Thành viên tịch vào ngày 25 tháng 10 âm lịch, HT ở lại chùa suốt 100 ngày, không bước chân ra khỏi cổng, chuyên tâm cầu nguyện và ôn lại lời dạy của thầy: "Tu không học như kẻ mù dạo phố, học không tu như ngựa lừa đeo trân bảo." Chính lời dạy ấy đã thắp lên ngọn lửa cầu học trong lòng Ngài, biến đau thương thành động lực mới, mở ra con đường dài phía trước.

 

 

HÀNH TRÌNH CẦU ĐẠO

 

Năm 1949, ở tuổi 16, với lòng học đạo hoằng pháp sau khi cúng Thầy mình 100 ngày, và đã quyết định rời quê nhà để vào Phật Học Viện Hải Đức để tiếp tục tu học.

 

Năm 1955, đất nước chia đôi thành hai miền Nam Bắc, chiến tranh và chính trị làm rung chuyển mọi thứ. Phật Học Viện Hải Đức đóng cửa, Ngài phải tiếp tục hành trình vào Phật Học Đường Ấn Quang để tiếp tục tu học.

 

Năm 1958, ở tuổi 25, Ngài tốt nghiệp trung học Phật giáo. Sau 4 năm miệt mài đến năm 1962, Ngài tốt nghiệp Cao đẳng Phật học tại Phật Học Viện Ấn Quang, xếp thứ 5 trong khóa, và được bổ nhiệm làm Giám Đốc Phật Học Đường Giác Sanh tại Phú Thọ, Sài Gòn. Từ đây, Ngài bước vào giai đoạn gánh vác trọng trách, mang tri thức Phật học để gieo mầm đạo pháp trong hàng xuất gia và tại gia.

 

 

PHONG TRÀO ĐẤU TRANH - TRÁI TIM TỪ BI GIỮA KHÓI LỬA

 

Năm 1963, ở tuổi 30, Ngài đối mặt với một trong những thử thách lớn nhất: chế độ Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo. Cờ Phật bị hạ xuống trong ngày Đại Lễ Phật Đản, Tăng Ni và tín đồ bị quân đội đàn áp hoặc một số bị bắn chết trên đường phố Sài Gòn. Ngài không thể ngồi yên khi hình ảnh Bồ tát Thích Quảng Đức tự thiêu khiến lòng Ngài đau như cắt. Giữa cơn bão ấy, với trọng trách là Tổng đoàn trưởng thanh niên Tăng Ni, dẫn dắt cuộc tranh đấu bất bạo động đòi tự do tín ngưỡng.

 

Sau biến cố 1963 khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ, Ngài tiếp tục sứ mệnh hoằng pháp. Từ 1965 đến 1967, Ngài tiếp tụng giảng dạy Tăng Ni tại các Phật học đường nổi tiếng ở Sài Gòn như Huệ Quang, Huệ Nghiêm, Dược Sư, và cả các học viện lục tỉnh như Huyền Trang,Vĩnh Tràng, Phổ Đức ở Mỹ Tho.

 

 

DU HỌC ĐÀI LOAN

 

Năm 1968, với tinh thần phụng sự đạo pháp, Ngài xin phép Giáo Hội đi du học tại Đài Loan trú tại Phật Quang Sơn là trung tâm Phật giáo lớn nhất tại đây. Ngài học Tạng Luật 5 năm dưới sự hướng dẫn của Hòa Thượng Thích Tinh Vân và Hòa Thượng Hội Tánh. Năm 1973, ở tuổi 40, Ngài trở về Việt Nam, mang theo kho tàng tri thức về Luật của hàng xuất gia và tại gia để giảng dạy tại các Phật học đường, đồng thời tiếp tục vai trò là Tổng đoàn trưởng Thanh Niên Tăng Ni. 

 

Nhưng năm 1975, sau cuộc chuyển biến chánh trị,các Phật học viện bị giải tán. Ngài cùng Tăng Ni quy tụ về Đại Tòng Lâm ở Bà Rịa, Vũng Tàu, tự túc trồng trọt, sống đời đạm bạc. Trong thời gian này, Ngài tham gia Hội đồng phiên dịch Đại Tạng Kinh, dịch bộ luật Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni, đồng thời ghi chép lịch sử Phật giáo Việt Nam bằng chữ Nôm cùng các bậc tôn túc như Hòa Thượng Trí Tịnh, cố HT Trí Thủ, và cố Thượng tọa Tuệ Sỹ. Tiếc thay, Phật sự không thể tiếp tục vì thời cuộc.

 

 

VƯỢT BIÊN

 

Ngày 12 tháng 7 năm 1979, từ Bạc Liêu, trên một con thuyền nhỏ trong lòng Ngài từ lâu đã ấp ủ tôn chỉ: hoằng dương chánh pháp, đào tạo tăng tài, cùng tái lập tứ thánh địa và cuối cùng vượt qua nhiều nguy hiểm để định cư tại hải ngoại.

 

Sau bao hiểm nguy, hai thầy trò gồm Ngài và đệ tử Phổ Tịnh đã đến được đảo Pulau Bidong, Mã Lai. Đến tháng 6 năm 1980 Thầy trò được định cư tại Montréal, tỉnh Québec, Canada - một vùng đất lạnh giá, xa lạ. Đối diện với mùa đông Bắc Mỹ khắc nghiệt, Ngài đã kiên trì vượt qua tất cả chí hướng hoằng pháp độ sanh nơi hải ngoại.

 

 

GIEO MẦM PHẬT PHÁP TẠI CANADA: Với hệ thống tổ chức các Hội Phật giáo tại các tỉnh bang của Canada

 

Năm 1980, Ngài và Thầy Phổ Tịnh đặt chân đến Canada, đối mặt với muôn vàn khó khăn: khí hậu lạnh giá, tiếng nói xa lạ, văn hóa khác biệt. Nhưng với lòng kiên định, mang theo y áo và tôn chỉ cao cả: đào tạo tăng tài, hoằng dương Đaọ Pháp, Với trái tim hoằng pháp, hai thầy trò bắt đầu xây dựng hệ thống phật giáo trên khắp miền đất nầy. Ngài dựng chùa, mở lớp học, đào tạo bao thế hệ tăng tài, những ngọn đèn nối tiếp Ngài soi sáng đêm đen. Những ngôi chùa dần mọc lên, như những đóa sen nỡ giữa đất lạnh, nhờ bàn tay và tâm nguyện không mệt mỏi của hai Thầy trò, từ chùa Liên Hoa, Đến Niệm Phật Đường Tam Bảo tọa lạc tại số 2170 trên đường Sherbrooke Est, và đã đúng thời điểm tạo dựng ngôi chùa Tam Bảo tại Montréal, từ một ngôi nhà thờ Do Thái cũ ở số 4450 đại lộ Van Horne, mua với giá 70 ngàn tiền Canada vào cuối năm 1980. Dưới bàn tay của Ngài và sự góp sức của Phật tử, ngôi chùa được trùng tu, khánh thành long trọng vào năm 1981, trở thành nơi nương tựa tinh thần cho cộng đồng Việt Nam tại Montréal.

 

Năm 1982, Ngài khai sáng Hội Phật Giáo Chánh Pháp và tiếp tục mở rộng đạo tràng: Hội Phật Giáo Chánh Giác Chùa Hoa Nghiêm ở Toronto (1983), Hội Phật Giáo Chánh Đạo Chùa Hải Hội ở Winnipeg (1987), Hội Phật Giáo Chánh Đạo Chùa Chánh Tâm ở Saskatoon (1991), Hội Phật Giáo Chánh Tín Chùa Hải Đức, Hội Phật Giáo Chánh Trí Niệm Phật Đường London Ontario, Hội Phật Giáo Chánh Đẳng Chùa Vạn Hạnh Victoria Vancouver, Hội Phật Giáo Chánh Thiện, Nanaimo và nhiều ngôi chùa khác trên khắp Canada.

 

Thầy Phổ Tịnh cũng đã ghi danh đi học Đại Học tại Montréal, nơi mà Thầy Phổ tịnh đã lấy bằng cử nhân Triết lý và Thạc sĩ về tôn giáo tại Đại học Concordia và Thạc sĩ Phật Giáo tại Đại học McGill, cùng Tiến sĩ tại Đại học Berkeley ở Hoa kỳ. Với lòng nhiệt huyết ban đầu, Thầy Phổ Tịnh là cánh tay phải đắc lực của Ngài, đặc biệt trong việc quản lý Thánh Điạ Đại Tòng Lâm Tam Bảo Sơn, Chùa Tam Bảo và Chùa Hoa Nghiêm sau này. Năm 1988, Ngài triệu tập cuộc họp, đổi danh xưng Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Canada thành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Canada (GHPGVNTN), đặt nền móng vững chắc cho Phật giáo Việt Nam tại hải ngoại.

 

 

ĐẠI TÒNG LÂM TAM BẢO SƠN: TÁI HIỆN TỨ THÁNH ĐỊA

 

Cũng trong năm 1998, ở tuổi 65, Ngài thực hiện tâm nguyện lớn nhất trong cuộc đời hoằng pháp tại Canada: Mua 337 mẫu đất tại Harrington, Québec, với giá 150 ngàn tiền canada để tái lập Đại Tòng Lâm Tam Bảo Sơn, Tứ Thánh Địa Phật giáo tại Quebec, Canada.

 

Trong hơn 12 năm, từ 1988 đến 2000, Ngài cùng Thầy Phổ Tịnh và các đệ tử khác, như: Thích Pháp Thể, Thích Pháp Tánh, Thích Pháp Liên, Thích Pháp Long, Thích Pháp Hoa, Thich Linh An, Thích Pháp Vân, Thích Pháp Thành, v.v. tái hiện tứ thánh tích của Đức Phật: vườn Lam Tỳ Ni, Bồ Đề Đạo Tràng, vườn Lộc Uyển, và Câu Thi Na Đạo Tràng; xây chánh điện Thiên Phật, lập một thư viện với hơn 50,000 quyển về Kinh, Luật và Luận của Phật Giáo. Ngài đích thân giám sát từng viên gạch, từng cây xanh, lòng thầm nhủ: "Đây không chỉ là chùa, mà là nơi để người người tìm về cội nguồn giác ngộ". Ngài cùng Thầy Phổ Tịnh đã kiến tạo một Phật Học Đường Tam Bảo Sơn để đào tạo Tăng Ni trong những khóa Long Thọ từ năm 1991- 1997. Ngài dạy: "Chùa là nơi giúp người người tìm về bến giác."

 

Tôn chỉ Hoằng dương chánh pháp, Đào tạo tăng tài, Tái lập tứ thánh địa mà Ngài kỳ vọng tạo dựng nơi hải ngoại khi quyết định vượt biên đã dần thành hiện thực, với sự hỗ trợ của đệ tử Phổ Tịnh và các hàng đệ tử xuất gia và tại gia ở khắp Canada.

 

Dù tài chính eo hẹp, văn hóa khác biệt, và đôi lúc gặp chướng ngại, Ngài vẫn mỉm cười, và dạy rằng "Không có sự thới lai nào mà không bắt nguồn từ bĩ cực." Ngài tổ chức các khóa tu Tịnh Độ, Bát Quan Trai, đào tạo nhiều thế hệ tăng tài trên Canada, nơi mà chư vị Đại Đức đã và đang trụ trì tại các ngôi chùa trên toàn Canada và Bắc Mỹ. Ngài đã gieo duyên Phật pháp không chỉ cho người Việt mà cả người bản xứ. Như lời cố Hòa Thượng Thích Huyền Quang Viện Trưởng Viện hoá đạo của Giáo Hội Phật Giáo thống Nhứt Việt nam đã gửi cho Ngài một bức thư vào năm 1980 khi hay tin ngài cùng Thầy Phổ Tịnh được định cư tại Canada rằng: "Đạo lặn ở nơi này, sẽ mọc ở nơi khác" - điều này đã chứng minh hùng hồn qua hình ảnh những đạo tràng tại các Chùa và Đại Tòng lâm Tam Bảo Sơn do Ngài và đệ tử Phổ Tịnh dựng nên.

 

Hằng năm, hàng ngàn du khách từ khắp thế giới đến viếng Thánh Điạ này, không chỉ để chiêm bái, mà còn để lắng nghe câu chuyện về Đức Phật qua lời kể của Ngài, giọng nói ấy vẫn ấm áp, vẫn chạm đến từng trái tim. Có một lần ngồi dưới bóng cây dương liễu trong tu viện, ngài nói với Thầy Phổ Tịnh: ‘Thầy không mong gì hơn, chỉ mong nơi đây là ngọn gió mát lành an ủi, xoa dịu nổi khổ niềm đau cho mọi người nơi hải ngoại này

 

 

VIÊN TỊCH: MỘT ĐỜI HÓA DUYÊN, NGỌN Đèn chánh Pháp TRỞ VỀ CÕI TỊNH.

 

Sau hơn 45 năm cống hiến tri thức Phật pháp tại Canada, tuổi già của Ngài với thân thể dần yếu đi, những tâm trí thì vẫn sáng như ngọn đuốc, Ngài là một ngọn đèn sáng đã hòa nhập vào ánh sáng vô tận của Phật pháp nơi quê hương và hải ngoại.

 

Ngày 14 tháng 2 năm 2025, sau 93 năm sống trọn vẹn cho Đạo, Đại lão Hoà Thượng đã an tịnh viên tịch tại Đại Tòng Lâm, Tam Bảo Sơn, nơi mà chính Ngài đã khai sáng, thượng thọ 93 tuổi, và 76 hạ lạp - Ngài ra đi thanh thản sau một hành trình dài phụng sự Phật pháp. Ngài ra đi trong sự an nhiên tự tại, dưới tiếng tụng niệm "Nam Mô A Di Đà Phật" vang vọng từ hàng đệ tử xuất gia và tại gia, trong đó có Thầy Phổ Tịnh - người học trò đã cùng Ngài vượt qua sóng gió để gieo mầm đạo pháp. Trong không gian tĩnh lặng, chỉ còn tiếng chuông chùa hòa cùng làn gió lạnh, như đưa tiễn một bậc chân tu về cõi Niết Bàn. Trước khi nhắm mắt, Ngài để lại lời cuối: "Ngài ra đi, những ánh sáng Phật giáo vẫn còn mãi."

 

Đúng vậy, những di sản Ngài để lại vẫn còn trong lòng hậu thế đó là Đại Tòng Lâm Tam Bảo Sơn, chùa Tam Bảo, và tổ chức Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhứt tại Canada đã trở thành di sản sống động, minh chứng cho lòng từ bi và ý chí bất khuất của Ngài. Thầy Phổ Tịnh, người đệ tử tâm đắc từng cùng Ngài vượt biển, sẽ tiếp tục phụng sự Phật pháp cùng quí Đại Đức luôn thực hiện tôn chỉ Hoằng Pháp Độ Sanh.

 

Thầy Phổ Tịnh, cùng quý Đại Đức Thích Pháp Tánh, Thích Pháp Liên, Thích Pháp Long, Thích Pháp Hoa, Thích Linh An, v.v., và hàng ngàn Phật tử, tiếp tục sứ mệnh mà Ngài đã khai sáng. Hòa Thượng là biểu tượng của lòng kiên định và lòng Từ Bi vô hạn, mãi mãi soi sáng cho đàn hậu học và cho những ai muốn tìm về bến giác an lành.

 

Hàng ngàn người đến tiển đưa, âm thầm nhỏ giọt nước mắt thương tiếccho hạnh nguyện cao cả của Ngài. Ai ai cũng cảm nhận rằng Ngài không mất, Ngài luôn là ngọn gíó, là ánh sáng, là ình ảnh mẫu mực mãi hiện tiền trong những ngôi chùa, những thế hệ tăng tài, và trong trái tim của muôn người. Một đệ tử nghẹn ngào thốt lên: "Thầy đi rồi, những Thầy để lại một kho tàng Phật giáo ngời sáng như trăng rằm."

 

 

LỜI KẾT: DI SẢN VÀ ÁNH SÁNG BẤT DIỆT

 

Ngài đã đi qua bao gíó sương, chiến tranh, biển cả, để trở thành ngọn hải đăng của Phật giáo để soi sáng cho đời. Cuộc đời Hòa Thượng là bài kinh sống động về vô ngã, từ bi, và tinh thần bất khuất, là ngọn gió mát lành giữa nhân gian khổ đau. Từ Ninh Hòa, Ngài vượt qua chiến tranh lưu vong, để gieo mầm Phật pháp nơi đất khách Canada. Hòa Thượng đã cống hiến cho đời sự hiểu biết uyên thâm về Phật học và Hán học cho Tăng Ni tại Canada. Hầu hết đệ tử của Ngài đều thành công trên con đường hoằng pháp lợi sanh, mang ánh sáng Phật pháp đến muôn nơi.

 

Đại Tòng Lâm Tam Bảo Sơn và GHPGVNTN tại Canada là chứng tích cho tinh thần hoằng pháp, từ bi và trí tuệ của Ngài: một người thầy cao cả, một ngọn đuốc bất diệt giữa cõi vô thường sanh diệt.

 

Tiếng chuông chùa Đại Tòng Lâm Tam Bảo Sơn vẫn vang vọng như lời Ngài từng nói: "Dù thế gian đổi thay, Đạo vẩn là ánh sáng, là từ Bi bất tận qua hình ảnh tứ thánh tích, chánh điện Thiên Phật, và hàng chục đạo tràng khắp Canada" - là chứng minh cho tâm nguyện Hoằng dương chánh pháp, Đào tạo tăng tài, Tái lập tứ thánh địa mà Ngài đã thực hiện.

 

Trên đất Canada, Ngài để lại di sản vĩnh cửu, một hệ thống tổ chức phật giáo rực rỡ, những thánh địa linh thiên, và một tấm lòng từ bi huyền diệu.

 

Nạp Tử kính đảnh lễ

Mùa đông 2025.